Thứ Năm, 21 tháng 8, 2025

Thi thử online - Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc lần 1 năm 2025

Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của Sở GD-ĐT Vĩnh Phúc lần 1 năm 2025 luôn được xem là tài liệu chất lượng cao giúp học sinh lớp 12 ôn tập và chuẩn bị cho kỳ thi quan trọng. Bộ đề này bám sát cấu trúc đề thi tốt nghiệp THPT môn Vật lý 2025 của Bộ GD&ĐT, vừa kiểm tra kiến thức cơ bản, vừa có những câu phân hóa học sinh giỏi. Nhiều thầy cô đánh giá đề thi thử Vĩnh Phúc 2025 môn Vật lý là một trong những đề thi có độ tin cậy cao, giúp học sinh rèn kỹ năng làm bài. Việc luyện tập với đề thi thử tốt nghiệp môn Vật lý không chỉ giúp học sinh củng cố kiến thức mà còn rèn luyện tốc độ và tư duy giải quyết vấn đề. Đây chính là tài liệu tham khảo quan trọng cho những em đang hướng tới điểm số cao trong kỳ thi tốt nghiệp THPT các năm tới.

Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc lần 1 năm 2025)

PHẦN I. CÂU TRẮC NGHIỆM 4 LỰA CHỌN (chọn 1 đáp án đúng)

Câu 1: Khi nhiệt độ của khối khí trong một bình kín tăng thì áp suất $p$ của khối khí trong bình cũng tăng lên vì





Câu 2: Tính chất nào sau đây không phải là tính chất của chất ở thể khí?





Câu 3: Gọi $v_r, v_l, v_k$ lần lượt là tốc độ truyền sóng cơ trong các môi trường rắn, lỏng, khí. Kết luận đúng là





Câu 4: Đơn vị đo nhiệt độ trong hệ đo lường SI là





Câu 5: Một lượng khí có thể tích $6\ \text{lít}$. Nếu nhiệt độ khí được giữ không đổi và áp suất khí tăng thêm $50\%$ so với ban đầu thì thể tích của lượng khí này là





Câu 6: Đồ thị nào sau đây không phù hợp với quá trình đẳng áp?
Câu 6 - Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025





Câu 7: Phát biểu nào sau đây sai? Tính chất cơ bản của từ trường là tác dụng lực từ lên





Câu 8: Cho đồ thị biến đổi trạng thái của một khối khí lí tưởng xác định từ trạng thái (1) đến trạng thái (2) như hình vẽ.
Hình a minh họa Câu 8 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)
Đồ thị bên tương ứng với đồ thị nào sau đây?
Hình b minh họa Câu 8 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)





Câu 9: Phương trình nào sau đây là phương trình trạng thái của khí lí tưởng?





Câu 10: Người ta thả một vật rắn có khối lượng $m_1$ ở $150\ ^{\circ}\!\text{C}$ vào một bình chứa nước khối lượng $m_2$ ở $20\ ^{\circ}\!\text{C}$. Khi cân bằng nhiệt, nhiệt độ là $50\ ^{\circ}\!\text{C}$. Gọi $c_1, c_2$ là nhiệt dung riêng vật rắn và nước. Tỉ số đúng là





Câu 11: Một dây dẫn dài $20\ \text{cm}$ có dòng điện $5\ \text{A}$ chạy qua, đặt vuông góc với $\vec B$ có $B=0{,}2\ \text{T}$. Lực từ tác dụng lên đoạn dây có độ lớn bằng





Câu 12: Phương của vectơ cảm ứng từ tại một điểm trong từ trường





Câu 13: Một vật chuyển động thẳng biến đổi, trong thời gian $\Delta t$ vận tốc đổi từ $v_0$ đến $v$. Biểu thức gia tốc là





Câu 14: Theo mô hình động học phân tử, áp suất $p$ của khí liên quan đến mật độ phân tử $\mu$, khối lượng phân tử $m$, trung bình $\overline{v^2}$ theo biểu thức nào?





Câu 15: Nhiệt nóng chảy riêng của nước đá $= 3{,}34\!\times\!10^5\ \text{J/kg}$. Nhiệt lượng $Q$ để làm nóng chảy $500\ \text{g}$ là:





Câu 16: Trong các hiện tượng sau, hiện tượng liên quan đến sự nóng chảy là:





Câu 17: Thời tiết Vĩnh Phúc: $19\ ^{\circ}\!\text{C}$ đến $28\ ^{\circ}\!\text{C}$. Tương ứng khoảng Kelvin nào?





Câu 18: Đồ thị nào sau đây biểu diễn mối quan hệ giữa khối lượng nước còn lại trong bình nhiệt lượng kế và thời gian của quá trình hoá hơi của nước?
Hình minh họa Câu 18 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)





PHẦN II. CÂU TRẮC NGHIỆM ĐÚNG – SAI (Câu 19 – 22)

Phát biểu đúng đánh dấu ☑, sai để trống ☐. (4 đúng = 1.0; 3 đúng = 0.5; 2 đúng = 0.25; 1 đúng = 0.1)

Câu 19: Khi truyền nhiệt lượng $Q$ cho khối khí trong một xi lanh hình trụ thì khí dãn nở đẩy pít-tông làm thể tích của khối khí tăng thêm $7{,}0\ \text{lít}$. Biết áp suất $p = 3\!\times\!10^5\ \text{Pa}$ và không đổi.

Câu 20: Một ống thuỷ tinh hình trụ thẳng đứng tiết diện ngang $S$ nhỏ, đầu trên hở, đầu dưới kín. Ống chứa một khối khí (coi là khí lí tưởng) ở trạng thái (1) có chiều cao $L = 90\ \text{cm}$ được ngăn cách với bên ngoài bởi một cột thuỷ ngân có độ cao $h = 75\ \text{cm}$, mép trên cột thuỷ ngân cách miệng trên của ống một đoạn $l =10\ \text{cm}$. Nhiệt độ của khí trong ống là $t_0 = - 30\ ^{\circ}\!\text{C}$, áp suất khí quyển là $p_0 = 75\ \text{cmHg}$.

Hình cho Câu 20 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)

Câu 21: Một khối khí xác định có đồ thị biểu diễn sự biến thiên của thể tích theo áp suất khi nhiệt độ không đổi như hình vẽ.

Hình cho Câu 21 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)

Câu 22: Một máy nước nóng hoạt động bằng năng lượng Mặt Trời có hiệu suất chuyển đổi bằng $25%$; cường độ bức xạ Mặt Trời lên bộ thu nhiệt là $1000\ \text{W/m}^2$; diện tích bộ thu nhiệt là $4\text{,}2\ \text{m}^2$. Cho nhiệt dung riêng của nước là $4200\ \text{J/kg}\!\cdot\! \text{K}$.

Hình cho Câu 22 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)

PHẦN III. CÂU TRẢ LỜI NGẮN (Câu 23 – 28)

Nhập đáp án vào textbox, dùng dấu chấm cho phần thập phân; tối đa 4 ký tự.

Câu 23: Một bình chứa $14\ \text{g}$ khí nitrogen ở nhiệt độ $27\ ^\circ\!\text{C}$ và áp suất $1\ \text{atm}$. Sau khi hơ nóng, áp suất trong bình chứa khí tăng lên tới $5\ \text{atm}$. Biết nhiệt dung riêng của nitrogen trong quá trình nung nóng đẳng tích là $c_v=742\ \text{J/kg}\!\cdot\!\text{K}$. Coi sự nở vì nhiệt của bình là không đáng kể. Độ tăng nội năng của khí bằng bao nhiêu $\text{kJ}$ (làm tròn kết quả đến chữ số hàng phần mười)?

Câu 24: Để xác định nhiệt hóa hơi của nước người ta làm thí nghiệm sau. Đưa $10\ \text{g}$ hơi nước ở $100\ ^\circ\!\text{C}$ vào một nhiệt lượng kế chứa $290\ \text{g}$ nước ở $20\ ^\circ\!\text{C}$. Nhiệt độ cuối của hệ là $40\ ^\circ\!\text{C}$, biết nhiệt dung của nhiệt lượng kế là $46\ \text{J/K}$, nhiệt dung riêng của nước là $4\text{,}18\ \text{J/g}\!\cdot\!\text{K}$. Nhiệt hóa hơi riêng của nước là $x\!\cdot\!10^6\ \text{J/kg}$. Giá trị của $x$ bằng bao nhiêu (làm tròn kết quả đến chữ số hàng phần trăm)?

Câu 25: Một xi lanh cách nhiệt nằm ngang kín hai đầu, được chia làm hai ngăn nhờ một pit-tông mỏng có khối lượng $m = 400\ \text{g}$, diện tích tiết diện $S = 100\ \text{cm}^2$. Pit-tông cách nhiệt và có thể dịch chuyển không ma sát bên trong xi lanh. Hai ngăn của xi lanh có hai lò xo nhẹ có độ cứng bằng nhau và bằng $k =10\ \text{N/m}$. Lò xo thứ nhất có chiều dài tự nhiên $l_1 = 50\ \text{cm}$ được gắn một đầu với đầu $\text{A}$ của xi lanh và một đầu gắn với pit-tông, lò xo thứ hai có chiều dài tự nhiên $l_2 = 30\ \text{cm}$ được gắn một đầu với đầu $\text{B}$ của xi lanh và một đầu gắn với pit-tông như hình vẽ.

Hình cho Câu 26 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)

Lúc đầu áp suất khí hai bên xi lanh bằng nhau là $1\text{,}2\!\cdot\!10^5\ \text{N/m}^2$, pit-tông cân bằng và các lò xo dài tự nhiên. Cho biết $\mu_\text{He}=4\ \text{g/mol}$, $\mu_{\text{O}_{32}}=32\ \text{g/mol}$, lấy $R=8,31\ \text{J/mol}\!\cdot\!\text{K}$. Nếu cho xi lanh quay với vận tốc góc $ω$ xung quanh trục thẳng đứng $\text{O}z$ đi qua trọng tâm của xi lanh thì khi có cân bằng tương đối, pit-tông đã dịch chuyển một đoạn $x =10\ \text{cm}$. Coi rằng quá trình dịch chuyển pit-tông nhiệt độ khí trong xi lanh không thay đổi. Tốc độ góc $ω$ bằng bao nhiêu $\text{rad/s}$ (làm tròn kết quả đến hàng đơn vị)?

Câu 26: Một bác thợ rèn rút một con dao bằng thép khối lượng $0\text{,}9\ \text{kg}$ vừa nung xong có nhiệt độ $750\ ^\circ\!\text{C}$ và nhúng ngay vào trong một bể nước lạnh để làm tăng độ cứng của lưỡi dao. Trong bể có $20\ l$ nước có nhiệt độ bằng với nhiệt độ ngoài trời là $30\ ^\circ\!\text{C}$. Coi sự truyền nhiệt cho thành bể và môi trường xung quanh bể không đáng kể, khối lượng riêng của nước không thay đổi theo nhiệt độ. Biết nhiệt dung riêng của thép là $460\ \text{J/kg}\!\cdot\!\text{K}$, của nước là $4200\ \text{J/kg}\!\cdot\!\text{K}$ và khối lượng riêng của nước là $1\ \text{kg}/l$. Nhiệt độ của nước khi có sự cân bằng nhiệt bằng bao nhiêu $\ ^\circ\!\text{C}$ (làm tròn kết quả đến chữ số hàng phần mười)?

Câu 27: Một chiếc xe tải vượt qua sa mạc Atacama. Chuyến đi bắt đầu vào sáng sớm khi nhiệt độ là $5\ ^\circ\!\text{C}$. Đến giữa trưa, nhiệt độ tăng lên đến 450C. Coi khí trong lốp xe có nhiệt độ như ngoài trời. Độ tăng động năng tịnh tiến trung bình của một phân tử khí do sự gia tăng nhiệt độ này có giá trị là $x\!\cdot\!10^{-22}\ \text{J}$. Giá trị của $x$ bằng bao nhiêu (làm tròn kết quả đến chữ số hàng phần trăm)?

Câu 28: Một mol khí lí tưởng biến đổi trạng thái theo chu trình $\text{ABC}$ như hình vẽ.

Hình cho Câu 28 (Đề thi thử tốt nghiệp THPT môn Vật lý của sở GD-ĐT Vĩnh Phúc năm 2025)

Nhiệt độ của khí ở trạng thái $\text{A}$ là $T_0 = 250\ \text{K}$. Hai điểm $\text{B}$, $\text{C}$ cùng nằm trên một đường đẳng nhiệt, đường thẳng $\text{AC}$ đi qua gốc tọa độ $\text{O}$. Nhiệt độ cực đại mà khí đạt được khi biến đổi theo chu trình trên bằng bao nhiêu độ $\text{K}$?

👉 Tổng hợp đề thi thử tốt nghiệp THPT theo mẫu 2025 môn Vật lý

Banner Nguyễn Đình Tấn

Thứ Hai, 18 tháng 8, 2025

Chương trình giáo dục phổ thông 2018 và Sách giáo khoa - Khoảng cách cần lấp đầy

Sách giáo khoa là cầu nối giữa chương trình và người học
Sách giáo khoa là cầu nối giữa chương trình và người học
Mở đầu: Cây cầu mong manh giữa chương trình và lớp học

Sách giáo khoa (SGK) không chỉ là một cuốn sách học, mà là chiếc cầu nối giữa chương trình chính thức do nhà nước ban hành và thực tiễn giảng dạy trong từng lớp học. Chương trình quy định mục tiêu, phẩm chất, năng lực mà học sinh cần đạt được sau một giai đoạn học tập; còn SGK biến những dòng chữ khái quát ấy thành những bài học cụ thể, bài tập, tranh minh họa, hoạt động trải nghiệm.

Thế nhưng, chiếc cầu này nhiều khi lại mong manh, thậm chí bị lệch hướng: chương trình viết một kiểu, SGK trình bày một kiểu. Trong bối cảnh Việt Nam, sau hơn bốn năm triển khai Chương trình Giáo dục phổ thông (CTGDPT) 2018 với nhiều bộ SGK, tranh luận đã nổ ra khắp nơi: từ lớp học, hội đồng phụ huynh cho tới nghị trường Quốc hội. Nhiều ý kiến cho rằng SGK hiện hành vẫn quá nặng, xa rời năng lực, học sinh “đuối sức” còn giáo viên thì loay hoay tìm cách xoay xở.

Đây không phải là vấn đề riêng của Việt Nam. Từ Đài Loan, Mỹ cho tới nhiều nước châu Âu, khoảng cách giữa “chương trình năng lực” và “SGK kiến thức” đã và đang trở thành một thách thức toàn cầu.

Hậu quả của việc thiếu tư duy định hướng năng lực
Hậu quả của việc thiếu tư duy "định hướng năng lực"
Bài học từ Đài Loan: Chương trình năng lực – SGK kiến thức

Năm 2013, giáo sư Châu Thục Khanh (周淑卿), Đại học Giáo dục Quốc lập Đài Bắc, công bố nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa curriculum guidelines (hướng dẫn chương trình) và SGK. Kết quả cho thấy, mặc dù chương trình của Đài Loan nhấn mạnh mục tiêu phát triển năng lực, nhưng khi xuất bản SGK, đa phần nội dung lại thiên về truyền đạt tri thức.

Học sinh vẫn học bằng cách ghi nhớ, tái hiện, làm bài tập mẫu — nghĩa là học thuộc lòng nhiều hơn là rèn tư duy hay năng lực giải quyết vấn đề. Giáo viên vì thế cũng bị cuốn vào vòng xoáy “dạy để thi” thay vì “dạy để học”.

Ba nguyên nhân cốt lõi được chỉ ra:

  • Chương trình chưa đủ rõ: các chuẩn năng lực thường được viết rất khái quát, ví dụ “học sinh biết vận dụng kiến thức toán học vào thực tiễn”, nhưng không nêu rõ “thực tiễn” ở mức độ nào, với ví dụ cụ thể ra sao.
  • Tư duy biên soạn cũ: nhiều tác giả vẫn quan niệm SGK là “giáo trình thu nhỏ”, cố gắng đưa vào càng nhiều kiến thức càng tốt.
  • Áp lực thi cử: khi các kỳ thi vẫn nặng tính kiểm tra kiến thức, SGK buộc phải quay về dạng “sách luyện thi mở rộng”, thay vì tài liệu định hướng năng lực.
“Chúng tôi được yêu cầu dạy học theo năng lực, nhưng SGK lại viết y như trước. Nếu không theo sách, học sinh và phụ huynh lo lắng; nếu bám sát sách, thì chẳng khác gì cách học cũ.” — Giáo viên trung học ở Đài Bắc
Kinh nghiệm quốc tế: Không chỉ chuyện của Đài Loan

Không riêng Đài Loan, nhiều quốc gia khác cũng gặp vấn đề tương tự.

  • Mỹ: Dự án Project 2061 của Hiệp hội Tiến bộ Khoa học Mỹ (AAAS) đã từng phân tích hàng chục SGK khoa học và chỉ ra rằng, hầu hết đều “quá tải thông tin” nhưng “thiếu chiều sâu khái niệm”.
  • Anh và Pháp: nghiên cứu cho thấy giáo viên thường sử dụng SGK như “khung chương trình thực tế”, vì chương trình chính thức quá khái quát. SGK vô tình trở thành “chương trình ẩn”.
  • Đức: có cơ chế “tài liệu đi kèm chương trình” (Lehrplan-Handreichungen), trong đó có hướng dẫn chi tiết, ví dụ minh họa, thậm chí gợi ý cấu trúc bài học. Nhờ vậy, tác giả SGK và giáo viên có chung cách hiểu.

Nhìn ra thế giới để thấy, khoảng cách chương trình – SGK không chỉ là vấn đề kỹ thuật, mà là căn bệnh mãn tính của giáo dục hiện đại.

Giải pháp: Tăng cường hỗ trợ và hợp tác chuyên môn
Giải pháp: Tăng cường hỗ trợ và hợp tác chuyên môn
Việt Nam: CTGDPT 2018 và những tranh luận bất tận

Việt Nam bước vào cải cách với CTGDPT 2018 trong kỳ vọng lớn lao: từ “học để thi” sang “học để phát triển năng lực”. Chủ trương một chương trình – nhiều bộ SGK được xem là bước tiến. Tuy nhiên, thực tế lớp học và phản ánh xã hội cho thấy nhiều trục trặc:

  • SGK Toán lớp 1 từng gây bão dư luận khi nhiều bài toán “lạ” khiến phụ huynh lẫn học sinh bối rối.
  • SGK Ngữ văn bị phê bình vì nhiều văn bản dài, khó đọc, học sinh phải học thuộc mà ít cơ hội thực hành viết, tranh luận.
  • SGK Khoa học Tự nhiên nhiều thuật ngữ hàn lâm, trong khi học sinh THCS gặp khó khăn để hình dung qua thí nghiệm.
  • SGK Tiếng Việt lớp 1 từng khiến xã hội “dậy sóng” với các câu văn khó hiểu, phải điều chỉnh.
“Nếu dạy y như SGK, nhiều em không theo được. Chúng tôi phải soạn thêm phiếu học tập, chọn lọc kiến thức, cắt bớt hoặc biến tấu bài tập.” — Giáo viên ở Nghệ An
Vì sao SGK Việt Nam chưa “đi cùng” chương trình?

Có thể thấy một số nguyên nhân chính:

  • Chương trình khái quát, dễ gây nhiều cách hiểu: Ví dụ, CTGDPT 2018 môn Vật lý ghi “Học sinh biết vận dụng kiến thức vật lý để giải thích một số hiện tượng”, nhưng không nêu cụ thể mức độ.
  • Thói quen biên soạn SGK theo lối giáo trình: coi trọng đủ – đúng kiến thức, mà quên rằng học sinh phổ thông không cần biết tất cả.
  • Áp lực từ thi cử: đề thi kiểm tra tái hiện nên SGK khó thoát khỏi nhồi nhét.
  • Thiếu cơ chế phản hồi: tác giả ít tham khảo thực tiễn lớp học, chỉnh sửa SGK thường chậm.
  • Thị trường hóa nửa vời: nhiều bộ SGK nhưng thiếu tiêu chí chất lượng minh bạch.
Quá trình diễn giải Chương trình thành sách giáo khoa
Quá trình "diễn giải" chương trình thành sách giáo khoa
Giải pháp: Để SGK thật sự phát triển năng lực

Muốn SGK đi đúng tinh thần CTGDPT 2018, cần một loạt giải pháp đồng bộ:

  • Cụ thể hóa chương trình: Bộ GD&ĐT ban hành “tài liệu giải thích chương trình” với ví dụ minh họa, yêu cầu đầu ra cụ thể.
  • Đổi mới tư duy biên soạn SGK: SGK không phải “giáo trình”, mà là “học liệu”. Cần nhiều hoạt động, tình huống, dự án nhỏ.
  • Tăng cường cơ chế phản hồi: thí điểm SGK ở một số trường, cập nhật phiên bản hàng năm.
  • Gắn đổi mới SGK với đổi mới thi cử: nếu đề thi vẫn nặng kiến thức, SGK sẽ khó đổi mới.
  • Phát triển học liệu mở: kho học liệu số, video, mô phỏng 3D, dự án nhỏ hỗ trợ song song SGK giấy.
Kết luận: Nếu không lấp khoảng trống…

Kinh nghiệm từ Đài Loan, Mỹ, châu Âu cho thấy: khoảng cách giữa chương trình và SGK là vấn đề toàn cầu. Nhưng điều khác biệt nằm ở cách mỗi quốc gia giải quyết. Nếu chúng ta tiếp tục để SGK “đi chệch hướng”, CTGDPT 2018 có nguy cơ đi vào vết xe đổ: chương trình hiện đại trên giấy, nhưng lớp học thì vẫn cũ.

Một câu hỏi cần được đặt ra: SGK có thực sự giúp học sinh học cách học, rèn năng lực sống và giải quyết vấn đề không? Nếu câu trả lời vẫn còn bỏ ngỏ, thì công cuộc đổi mới khó lòng đạt tới mục tiêu.

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2025

Tìm chu kì dao động điều hòa nhỏ bằng phương pháp năng lượng thật là đơn giản

Một trong những nhiệm vụ quan trọng của lý thuyết dao độngxác định chu kỳ của những dao động nhỏ của hệ cơ học quanh vị trí cân bằng. Trong chương trình Vật lý phổ thông, người ta định lượng dao động của những hệ chỉ có một bậc tự do (vị trí được xác định bằng một tham số — độ dịch chuyển, góc lệch, v.v.) và xảy ra không mất mát năng lượng. Ví dụ đơn giản của những hệ như vậy là vật nặng treo trên lò xo và con lắc toán học.

Thông thường, dao động của những hệ như vậy được nghiên cứu bằng phương pháp động lực học. Phương pháp này dựa vào việc đưa phương trình chuyển động của hệ (từ định luật II Newton) về dạng của phương trình dao động điều hòa: $$𝑥''+𝜔^2𝑥=0,\tag{1}$$ trong đó $𝑥''$ là đạo hàm bậc hai của tham số $𝑥$ theo thời gian.

Tìm chu kì dao động điều hòa bằng phương pháp năng lượng thật là đơn giản

Tuy nhiên, trong một số trường hợp, học sinh phổ thông gặp khó khăn khi lập phương trình dao động. Điều này trước hết xảy ra với các hệ có khối lượng phân bố, hoặc xét một hệ có nhiều vật chuyển động theo nhiều hướng khác nhau. Và khi đó, như thường lệ, định luật bảo toàn năng lượng đến cứu, cho phép mở rộng đáng kể phạm vi các bài toán có thể giải bằng kiến thức phổ thông.

Vậy phương pháp năng lượng trong nghiên cứu dao động là gì? Có thể nói rằng nó dựa trên việc so sánh năng lượng của hệ dao động với năng lượng của hệ đơn giản nhất là con lắc lò xo — một vật khối lượng $𝑚$ gắn với lò xo có độ cứng $𝑘$. Nếu biểu thức năng lượng cơ học của hệ, trong đó độ lệch khỏi vị trí cân bằng được xác định bởi tham số $𝑥$, được đưa về dạng $$𝐸=\frac{1}{2}𝑚_\text{hd}x'^2+\frac{1}{2}k_\text{hd}x^2 \tag{2}\label{2}$$ thì hệ thực hiện dao động điều hòa $$x=A\cos{\left(\omega t+\varphi_0\right)} \tag{3}$$ với tần số góc $$ \omega =\sqrt{\frac{k_\text{hd}}{m_\text{hd}}} \tag{4}$$

Hệ số $m_\text{hd}$ trong biểu thức năng lượng động học được gọi là khối lượng hiệu dụng (thường trùng với khối lượng của hệ), còn hệ số $k_\text{hd}$ trong biểu thức năng lượng thế được gọi là độ cứng hiệu dụng. Thật vậy, do cơ năng lượng được bảo toàn, nên đạo hàm theo thời gian của nó bằng không:

$$ E'(t) = 0 = m_{\text{hd}}\,x'\,x'' + k_{\text{hd}}\,x\,x' \tag{5} $$

và ta thu được phương trình dao động điều hòa:

$$ x'' + \frac{k_{\text{hd}}}{m_{\text{hd}}} x = 0.\tag{6} $$

Ví dụ, để minh họa cách hoạt động của phương pháp năng lượng, ta hãy tìm tần số góc dao động của con lắc đơn có khối lượng quả nặng $m$ và chiều dài dây $l$. Chọn tham số $x$ là độ dịch chuyển của quả nặng theo cung tròn từ vị trí cân bằng. Năng lượng động học của con lắc là \( m x'^2 / 2 \), nghĩa là khối lượng hiệu dụng bằng khối lượng của quả nặng. Thế năng đối với dao động nhỏ \((x \ll l)\) bằng:

$$ E_{\text{t}} = m g h = m g l (1 - \cos\alpha) = 2 m g l \sin^2\frac{\alpha}{2} = m g l \frac{\alpha^2}{2} = \frac{m g}{l} \frac{x^2}{2},\tag{7} $$

trong đó \(\alpha = x / l\) là góc lệch của con lắc. Do đó, độ cứng hiệu dụng bằng \( m g / l \), và tần số góc dao động bằng:

$$ \omega = \sqrt{\frac{k_{\text{hd}}}{m_{\text{hd}}}} = \sqrt{\frac{g}{l}}.\tag{8} $$

Bây giờ, chúng ta tìm chu kì dao động điều hòa bằng phương pháp năng lượng thông qua một số bài toán cụ thể.

MỘT SỐ BÀI TOÁN MẪU ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP NĂNG LƯỢNG TÌM CHU KÌ DAO ĐỘNG ĐIỀU HÒA

Bài toán 1. Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ lò xo - bánh xe lăn không trượt

Một lò xo có độ cứng $k$ được gắn vào một đầu của trục bánh xe khối lượng $m$, có khả năng lăn không trượt, và đầu kia được gắn vào tường. Tìm chu kỳ dao động của hệ thống. Khối lượng của bánh xe phân bố đều trên vành bánh xe.

Bài toán 1: Tìm chu kì dao động điều hòa bằng phương pháp năng lượng
Hình 1. Hệ lò xo - bánh xe dao động điều hòa

Độ dịch chuyển của tâm bánh xe sang phải đặt là $x$, tại đó chiều quay của bánh xe được quy ước cùng chiều kim đồng hồ.
Cơ năng của hệ $$ E=\frac{1}{2}mv^2+\frac{1}{2}I\omega^2+\frac{1}{2}kx^2 \tag{9} $$ Trong đó, moment quán tính của bánh xe (khối lượng tập trung ở vành bánh xe) là $I=mR^2$, bánh xe lăn không trượt nên $\omega=\frac{v}{R}$. Ta được biểu thức năng lượng đúng chuẩn: $$ E=\frac{1}{2}2mv^2+\frac{1}{2}kx^2 \tag{10} $$ Trong biểu thức năng lượng, khối lượng hiệu dụng là $m_\text{hd}=2m$, còn độ cứng hiệu dụng đúng bằng độ cứng lò xo $k_\text{hd}=k$. Tần số góc, chu kì của dao động là $$ \omega=\sqrt{\frac{k}{2m}}, T=2\pi\sqrt{\frac{2m}{k}} \tag{11} $$

🧠 Ở cấp độ các cuộc thi học sinh giỏi Quốc gia hoặc các kỳ thi Olympic Vật lý, các bài toán sẽ không dễ như Bài toán 1🚀

Tức là biểu thức tính năng lượng sẽ không thể đưa được về dạng mẫu mực (\ref{2}) nếu như không sử dụng một số quy tắc lấy gần đúng. Bởi vì dao động trong các bài toán ở các kì thi này chủ yếu là dao động bé, biên độ dao động là rất nhỏ so với các kích thước liên quan.
Các quy tắc lấy gần đúng thông dụng như: \begin{align} \left(1+\varepsilon\right)^n\approx 1+n\varepsilon, \text{với}\ \varepsilon \ll 1 \end{align} Nếu góc $\alpha$ rất nhỏ thì \begin{align} &\sin{\alpha}\approx \tan{\alpha}\approx \alpha\\ &\cos{\alpha}\approx \left(1-\frac{\alpha^2}{2}\right) \end{align} Thậm chí có lúc lấy $\cos{\alpha}\approx 1$, hoặc bỏ đi các vô cùng bé bậc cao như $\varepsilon^2, \varepsilon^3,...$ tùy vào thực tế mỗi bài toán.

Sau đây chúng ta sẽ cùng giải các bài toán ở cấp độ như vậy.

Bài toán 2. Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ con lắc lò xo - con lắc đơn trong điện trường

Một quả cầu nhỏ khối lượng $m$, mang điện tích $+q$, được treo trên một sợi dây mảnh, không dẫn điện, chiều dài $l$. Một lò xo không dẫn điện, độ cứng $k$, nằm ngang, được gắn vào bên trái quả cầu. Quả cầu nằm trong một điện trường đều $E$, hướng như hình vẽ. Khi cân bằng, sợi dây treo quả cầu treo thẳng đứng. Tìm chu kỳ dao động nhỏ của quả cầu trong mặt phẳng hình vẽ.

Bài toán 2: Tìm chu kì dao động điều hòa bằng phương pháp năng lượng
Hình 2. Hệ con lắc lò xo - con lắc đơn tích điện trong điện trường

Tại vị trí cân bằng, theo phương ngang (ta đặt trục $Ox$ nằm ngang, có chiều từ trái sang phải), lực đàn hồi cân bằng với thành phần nằm ngang của lực tĩnh điện: $$ k\Delta l_0=qE\sin{\beta} \tag{12} $$ Tại tọa độ $x$, góc lệch của sợi dây là $\alpha=\frac{x}{l}$, với góc nhỏ thì $\sin{\alpha}\approx\alpha$ và $\cos{\alpha}\approx1-\frac{1}{2}\alpha^2$. Ngoài động năng, ta viết thật chi tiết biểu thức các thế năng, đặc biệt là thế năng điện của quả cầu:
Động năng $$ K=\frac{1}{2}mv^2 \tag{13} $$ Thế năng trọng trường được tính tương tự như con lắc đơn, với gốc thế năng tại vị trí cân bằng \begin{align} U_\text{tt}=mgl\left(1-\cos{\alpha}\right) \tag{14} \end{align} Thế năng đàn hồi, với độ biến dạng $\Delta l=\Delta l_0+x=\Delta l_0+\alpha l$: $$ U_\text{đh}=\frac{1}{2}k\left(\Delta l_0+\alpha l\right)^2 \tag{15} $$ Chọn mốc thế năng điện tại vị trí cân bằng thì thế năng điện được tính bằng $-A$, với $A$ là công của lực điện trong quá trình quả cầu đi từ vị trí cân bằng đến tọa độ $x$. Công của lực điện trong điện trường đều là $A=qEd$, với $d$ là độ dịch chuyển của điện tích dọc theo đường sức. Ở đây độ dịch chuyển này được tính bằng $d=l\cos{\left(\beta-\alpha\right)}-l\cos{\beta}$ (như hình 3).

Bài toán 2: Độ dịch chuyển dọc theo đường sức
Hình 3. Độ dịch chuyển $d$ dọc theo đường sức

Vậy $$ U_\text{đ}=qEl\left(\cos{\beta}-\cos{\left(\beta-\alpha\right)}\right) \tag{16} $$ Cơ năng của hệ là \begin{align} E=\frac{1}{2}mv^2&+mgl\left(1-\cos{\alpha}\right)\\ &+\frac{1}{2}k\left(\Delta l_0+\alpha l\right)^2\\ &+qEl\left(\cos{\beta}-\cos{\left(\beta-\alpha\right)}\right) \tag{17} \label{17} \end{align} Đến đây có 2 cách cơ bản, có thể đưa về biểu thức cơ năng mẫu mực và lấy khối lượng hiệu dụng và độ cứng hiệu dụng, cũng có thể đạo hàm hai vế theo $t$ rồi đưa phương trình về dạng phương trình dao động điều hòa. Chúng ta chọn cách thứ hai:
Đạo hàm hai vế theo $t$, suy ra \begin{align} 0=mv'v&+mgl\alpha'\sin{\alpha}\\ &+kl\alpha'(\Delta l_0+\alpha l)\\ & -qEl\alpha'\sin{\left(\beta-\alpha\right)} \tag{18} \label{18} \end{align} Trong đó $l\alpha'=v$, tất cả các số hạng đều có đại lượng này nên chúng được rút gọn, và \begin{align} \sin{\alpha}&\approx \alpha,\cos{\alpha}\approx 1-\frac{\alpha^2}{2} \tag{19}\\ \sin{(\beta-\alpha)}&=\sin{\beta}\cos{\alpha}-\cos{\beta}\sin{\alpha}\\ &=\sin{\beta}\left(1-\frac{\alpha^2}{2}\right)-\alpha\cos{\beta} \tag{20}\\ \alpha l&=x \tag{21} \end{align} Biến đổi phương trình (\ref{18}) thành

\begin{align} x''=-\frac{qE\sin{\beta}}{2m}\left(\frac{x}{l}\right)^2-\left(\frac{g}{l}+\frac{k}{m}+\frac{qE\cos{\beta}}{ml}\right)x+\frac{k\Delta l_0}{m}-\frac{qE\sin{\beta}}{m} \tag{22} \end{align}

Phương trình dao động điều hòa đúng thì $x''$ phải là hàm tuyến tính của $x$, nhưng ở đây là hàm bậc hai. Nhiệm vụ tiếp theo là bỏ vô cùng bé bậc hai $\left(\frac{x}{l}\right)^2$, ta còn lại

\begin{align} x''=-\left(\frac{g}{l}+\frac{k}{m}+\frac{qE\cos{\beta}}{ml}\right)x+\frac{k\Delta l_0}{m}-\frac{qE\sin{\beta}}{m} \tag{23} \end{align}

Suy ra tần số góc $$ \omega=\sqrt{\frac{g}{l}+\frac{k}{m}+\frac{qE\cos{\beta}}{ml}} \tag{24} $$

😮‍💨 Lời giải trên hơi dài và khá rối, phải không? Đó là nhược điểm của cách làm gần đúng thông thường. Nhưng may mắn là còn một hướng tiếp cận khác — ngắn gọn hơn, tinh tế hơn.🌤️

Trước hết chúng ta phải hiểu thế nào là dao động bé
🤔Dao động trong phạm vi nào thì được gọi là dao động bé?
🙇‍♀️Các phép lấy gần đúng phải đảm bảo được yêu cầu gì? Tại sao khi thì lấy được $\cos{\alpha}\approx 1$, khi thì phải lấy $\cos{\alpha}\approx 1-\frac{\alpha^2}{2}$? Khi nào thì bỏ vô cùng bé bậc hai, khi nào thì không?

Phạm vi thì có ngay sau đây, còn phép lấy gần đúng thì chẳng cần, chỉ cần làm theo các bước sau đây 👉

Việc viết biểu thức năng lượng của hệ phải làm một cách chính xác, không áp dụng phép lấy gần đúng nào hết. Ở Bài toán 2 ta đã viết được công thức tính năng lượng, đó là phương trình (\ref{17}). Bạn hãy viết lại phương trình này vào giấy nháp để tiếp tục cùng tôi nghiên cứu nhé.
Lấy đạo hàm hai vế phương trình (\ref{17}) theo thời gian, ta sẽ được phương trình (\ref{18}). Chú ý $l\alpha'=v$ và $v'=l\alpha''$, từ (\ref{18}) suy ra

\begin{align} \alpha''=-\frac{g}{l}\sin{\alpha}-\frac{k}{m}\left(\frac{\Delta l_0}{l}+\alpha\right)+\frac{qE}{ml}\sin{\left(\beta-\alpha\right)}\tag{25}\label{25} \end{align}

Rõ ràng (\ref{25}) không phải là phương trình dao động điều hòa. Bởi vì chúng ta đang xét tọa độ $\alpha$ của quả cầu ở phạm vi bất kì, chưa phải góc nhỏ. Đồ thị $\alpha''(\alpha)$ biểu diễn mối liên hệ giữa $\alpha''$ và $\alpha$ của (\ref{25}) là đường cong màu xanh nhạt trong Hình 4. Trong khi phương trình dao động điều hòa phải có dạng $\alpha''=-\omega^2\alpha$, tức là đồ thị $\alpha''(\alpha)$ phải là một đường thẳng với hệ số góc bằng $-\omega^2$.

Trong phạm vi dao động bé thì gia tốc biến thiên tuyến tính theo li độ
Hình 4. Đoạn đồ thị màu đen đậm nằm trên cả đường cong và đường thẳng

Khi xét dao động bé xung quanh vị trí cân bằng ($\alpha=0$) thì chúng ta chỉ quan tâm đến một đoạn đồ thị rất ngắn lân cận của $\alpha=0$, đoạn đồ thị đó chính là một đoạn thẳng (đoạn màu đen đậm trong Hình 4). Có nghĩa là trong phạm vi này quả cầu dao động điều hòa.
Đoạn đồ thị này cũng nằm trên đường thẳng tiếp tuyến với đường cong tại $\alpha=0$ nên nó có hệ số góc bằng $$ -\omega^2=\left.\frac{d\alpha''}{d\alpha}\right|_{\alpha=0} $$ Ở Bài toán 2 này thì

\begin{align} \frac{d\alpha''}{d\alpha}&=-\frac{g}{l}\cos{\alpha}-\frac{k}{m}-\frac{qE}{ml}\cos{\left(\beta-\alpha\right)}\tag{26}\label{26}\\ -\omega^2=\left.\frac{d\alpha''}{d\alpha}\right|_{\alpha=0}&=-\left(\frac{g}{l}+\frac{k}{m}+\frac{qE}{ml}\cos{\beta}\right)\tag{27}\label{27}\\ \omega&=\sqrt{\frac{g}{l}+\frac{k}{m}+\frac{qE}{ml}\cos{\beta}} \end{align}

👉Tóm lại, để tìm chu kì dao động bé bằng phương pháp năng lượng, chúng ta chỉ cần thực hiện các bước sau đây:

  1. Viết biểu thức tính năng lượng của hệ ở tọa độ $x$.
  2. Đạo hàm hai vế phương trình năng lượng.
  3. Rút gọn thành phần $v$, $x'$ vì chắc chắn số hạng nào cũng có.
  4. Suy ra biểu thức $x''(x)$
  5. Tính đạo hàm $f(x)=\frac{dx''}{dx}$.
  6. Có ngay tần số góc $\omega=\sqrt{-f'(x_0)}$

Bây giờ hãy theo các bước vừa nêu để giải các bài toán tìm chu kì dao động bé bằng phương pháp năng lượng nhé!

Bài toán 3. Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ con lắc lò xo - cấu trúc khớp nối

Kết cấu (hình 5) gồm ba quả cầu nhỏ giống hệt nhau, mỗi quả có khối lượng $𝑚$, được nối với nhau bằng các thanh nhẹ có chiều dài $𝑙$. Ở vị trí cân bằng, kết cấu được giữ bởi một lò xo thẳng đứng có độ cứng $𝑘$ và có dạng hình vuông. Xác định chu kỳ $𝑇$ của dao động bé theo phương thẳng đứng của quả cầu dưới cùng.

Bài toán 3: Tìm chu kì dao động điều hòa bằng phương pháp năng lượng
Hình 5. Hệ con lắc lò xo - cấu trúc khớp nối

Chúng ta cân nhắc việc chọn biến số trong quá trình dao động của hệ, đó là tọa độ $x$ của vật dưới cùng hay tọa độ góc của một thanh. Ở đây chọn biến số là góc $\alpha$ giữa các thanh với phương thẳng đứng có vẻ như thuận lợi hơn. Mốc thế năng trọng trường ta cũng chọn chung tại điểm treo. Tại một vị trí của hệ, nơi có góc $\alpha$, vận tốc các vật là $v_1$ và $v_2$ (hình 6), ta có năng lượng của hệ

\begin{align} K&=\frac{1}{2}mv_1^2+2\frac{1}{2}mv_2^2\\ U&=\frac{1}{2}k(\Delta l_0+2l\cos{\alpha}-l\sqrt{2})^2-mg2l\cos{\alpha}-2mgl\cos{\alpha}\tag{28}\label{28} \end{align}
Bài toán 3: Vị trí của các vật được xác định bởi góc lệch giữa các thanh với phương thẳng đứng
Hình 6. Vị trí của các vật được xác định bởi góc lệch $\alpha$ giữa các thanh với phương thẳng đứng

Trong đó $\Delta l_0$ là độ biến dạng của lò xo ở vị trí cân bằng, nó được xác định bằng phương trình $\frac{dU}{d\alpha}=0$ khi $\alpha=45^\text{o}$. $$\Delta l_0=\frac{2mg}{k}$$

Trong (\ref{28}) có biến tọa độ $\alpha$ nhưng có đến hai biến vận tốc $v_1$ và $v_2$. Nhiệm vụ tiếp theo là phải liên hệ hai vận tốc này với nhau để đưa chúng về một biến.
Hãy vẽ hình thật cẩn thận và viết các biểu thức liên hệ một cách chính xác. Hình 6 thể hiện rất rõ ràng: quả cầu dưới cùng luôn chuyển động theo phương thẳng đứng (do tính đối xứng) nên $\vec{v}_1$ hợp với các thanh gắn với vật góc $\alpha$; hai quả cầu còn lại như hai con lắc đơn với điểm treo $\text{I}$, vận tốc $\vec{v}_2$ luôn vuông góc với thanh gắn với quả cầu, nên nó tạo với phương nagng góc $\alpha$.
Mặt khác hai quả cầu cùng nẳm trên một thanh nên vận tốc của chúng tuân theo biểu thức \begin{align} v_1\cos{\alpha}&=v_2\cos{\left(90^\text{o}-2\alpha\right)}\\ &=v_2\sin{(2\alpha)}\\ &=2v_2\sin{\alpha}\cos{\alpha}\\ \Rightarrow v_1&=2v_2\sin{\alpha}\tag{29}\label{29} \end{align} Đặt $v_2=v$ thì $v_1=2v\sin{\alpha}$.
Đến đây ta đã có biểu thức năng lượng

\begin{align} E=mv^2\left(2\sin^2{\alpha}+1\right)+\frac{1}{2}k\left(\Delta l_0+2l\cos{\alpha}-l\sqrt{2}\right)^2-4mgl\cos{\alpha}\tag{30}\label{30} \end{align}

Đạo hàm hai vế theo thời gian ta có

\begin{align} 0&=2mvv'(2\sin^2{\alpha}+1)+mv^2\alpha'4\sin{\alpha}\cos{\alpha}\\ & -\frac{1}{2}kl^22(2\cos{\alpha}-\sqrt{2})2\alpha'\sin{\alpha}\\ &+4mgl\alpha'\sin{\alpha} \end{align}

Chú ý rằng $v=l\alpha'$, rút gọn các thành phần này trên tất cả các số hạng, ta được

\begin{align} 0&=2ml\alpha''(2\sin^2{\alpha}+1)+2mv^2\sin{2\alpha}\\ & -2kl^2(2\cos{\alpha}-\sqrt{2})\sin{\alpha}\\ &+4mgl\sin{\alpha}\tag{31}\label{31} \end{align}

Bước tiếp theo là suy ra biểu thức $\alpha''=f(\alpha)$
Tuy nhiên ở bài toán này, từ (\ref{31}) suy ra biểu thức $\alpha''$ vẫn còn chứa $v$. Thật là bực phải không! Nhưng không sao, bỏ nó đi là được. Nhưng bỏ thế nào cho hợp lý? Ta hãy trở lại phương trình (\ref{30}) và nhận thấy rằng, trong động năng không chỉ có $v^2$ mà có cả $\alpha$, điều này làm cho phương trình sau khi đạo hàm không thể rút gọn được hết $v$. Ta suy luận như sau:
Do dao động rất bé nên ta xem như hướng vận tốc của các quả cầu bên trên thay đổi không đáng kể, nó luôn hợp với phương ngang một góc $45^\text{o}$ như ban đầu. Tức là $v_1=2v_2\sin{45^\text{o}}$. Nếu đặt $v_2=v$ thì $v_1=v\sqrt{2}$, và biểu thức năng lượng sẽ là

\begin{align} E=2mv^2+\frac{1}{2}k\left(\Delta l_0+2l\cos{\alpha}-\sqrt{2}l\right)^2-4mgl\cos{\alpha}\tag{32}\label{32} \end{align}

Đạo hàm hai vế theo thời gian ta có

\begin{align} 0&=4mvv'\\ & -2kl\alpha'(2l\cos{\alpha}-\sqrt{2}l+\Delta l_0)\sin{\alpha}\\ &+4mgl\alpha'\sin{\alpha} \end{align}

Sau khi rút gọn $v=l\alpha'$ và đổi $v'=l\alpha''$, ta suy ra

\begin{align} f(\alpha)=\alpha''=\frac{k}{2m}\sin{\alpha}\left(2\cos{\alpha}-\sqrt{2}+\frac{\Delta l_0}{l}\right)-\frac{g}{l}\sin{\alpha}\tag{33}\label{33}\\ f'(\alpha)=\frac{d\alpha''}{d\alpha}=\frac{k}{2m}\left[2\cos{2\alpha}-\left(\sqrt{2}-\frac{\Delta l_0}{l}\right)\cos{\alpha}\right]-\frac{g}{l}\cos{\alpha}\tag{34}\label{34}\\ \end{align}

Nhớ rằng $\Delta l_0=\frac{2mg}{k}$ và $\omega=\sqrt{-f'(45^\text{0})}$, ta có tần số góc $$ \omega=\sqrt{\frac{k}{2m}} $$

👉Kinh nghiệm rút ra từ bài toán 3:

  1. Nếu biểu thức động năng có chứa tọa độ thì lập luận làm triệt tiêu chúng, đảm bảo động năng chỉ còn vận tốc.
  2. Nếu thế năng có chứa vận tốc thì lập luận làm triệt tiêu chúng, đảm bảo thế năng chỉ còn tọa độ.

Bài toán 4. Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của quả cầu tích điện trong điện trường của hai điện tích điểm cố định

Giữa hai hạt tích điện $𝑄_1$ và $𝑄_2$, cách nhau một khoảng $𝐿$, có một hạt tích điện $𝑞$ và khối lượng $𝑚$. Cả ba hạt có điện tích cùng dấu và nằm trên cùng một đường thẳng. Vị trí của các hạt có điện tích $𝑄_1$ và $𝑄_2$ là cố định, chúng không thể chuyển động. Hạt có điện tích $𝑞$ chỉ có thể chuyển động không ma sát dọc theo đường thẳng đi qua cả ba hạt. Tìm tần số dao động điều hòa nhỏ của hạt có điện tích $𝑞$ khi lệch khỏi vị trí cân bằng nhỏ hơn nhiều so với khoảng cách từ vị trí cân bằng đến mỗi hạt có điện tích $𝑄_1$ và $𝑄_2$. Bỏ qua từ trường sinh ra bởi chuyển động của các điện tích. .

Bài toán 4: Tìm chu kì dao động điều hòa của hạt tích điện bằng phương pháp năng lượng
Hình 7. Hạt tích điện dao động bé giữa hai hạt tích điện cố định

Đặt khoảng cách từ $Q_1$ đến $q$ là $x$, khi đó khoảng cách từ $Q_2$ đến $q$ là $L-x$. Ta xét hệ tại vị trí cân bằng của $q$, lực đẩy tĩnh điện từ các điện tích $Q_1$ và $Q_2$ lên $q$ có độ lớn bằng nhau, suy ra

$$ \frac{Q_1}{x_0^2}=\frac{Q_2}{(L-x_0)^2}\\ \frac{\sqrt{Q_1}}{x_0}=\frac{\sqrt{Q_2}}{L-x_0}=\frac{\sqrt{Q_1}+\sqrt{Q_2}}{L}\\ $$
\begin{align} x_0&=\frac{\sqrt{Q_1}}{\sqrt{Q_1}+\sqrt{Q_2}}L\tag{35}\label{35}\\ L-x_0&=\frac{\sqrt{Q_2}}{\sqrt{Q_1}+\sqrt{Q_2}}L\tag{36}\label{36} \end{align}

Cơ năng của quả cầu $q$ tại tọa độ $x$ là \begin{align} E&=\frac{1}{2}mv^2\\ &+\frac{kqQ_1}{x}+\frac{kqQ_2}{L-x}\tag{37}\label{37} \end{align} Đạo hàm hai vế (\ref{37}) theo thời gian ta được \begin{align} 0=mvv'-\frac{kqQ_1x'}{x^2}+\frac{kqQ_2x'}{(L-x)^2} \end{align} Rút gọn các thành phần vận tốc và suy ra gia tốc $$ x''=-\frac{kq}{m}\left[\frac{Q_2}{(L-x)^2}-\frac{Q_1}{x^2}\right]\\ f(x)=-\frac{dx''}{dx}=\frac{2kq}{m}\left[\frac{Q_2}{(L-x)^3}+\frac{Q_1}{x^3}\right]\tag{38}\label{38} $$ Trở lại (\ref{35}) và (\ref{36}) để lấy $x_0$ và $L-x_0$ để thay vào (\ref{38}), ta được $$ f(x_0)=-\frac{2kq}{mL^3}\frac{\left(\sqrt{Q_1}+\sqrt{Q_2}\right)^4}{\sqrt{Q_1Q_2}} $$ Tần số góc của dao động bé của quả cầu điện tích $q$ là $$ \omega=\sqrt{-f(x_0)}=\left(\sqrt{Q_1}+\sqrt{Q_2}\right)^2\sqrt{\frac{2kq}{mL^3\sqrt{Q_1Q_2}}} $$

Bài toán 5. Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ hình trụ lăn trên nêm tự do

Trên mặt sàn nằm ngang có vật A có khối lượng $M$, mặt dưới phẳng, mặt trên lõm là một phần của mặt trụ bán kính $R$. Vật B có dạng hình trụ đặc bán kính $r$, khối lượng $m$. Đặt vật B trên mặt lõm của vật A sao cho trục của nó song song với trục của mặt trụ lõm này. Lúc đầu vật A đứng yên trên mặt sàn, vật B được giữ ở vị trí sao bán kính của mặt trụ lõm cắt trục của khối trụ A hợp với phương thẳng đứng một góc $\alpha_0$ ($\alpha_0$ có giá trị rất nhỏ). Thả cho B chuyển động với vận tốc ban đầu bằng không. Ma sát giữa A và mặt sàn không đáng kể, ma sát gữa A và B đủ lớn để B lăn không trượt trên mặt trụ lõm của A. Cho gia tốc trọng trường là $g$. Tính chu kì dao động của hệ.

Bài toán 5: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ hình trụ lăn trên nêm tự do
Hình 8. Hình trụ lăn trên nêm tự do

Trong hệ quy chiếu gắn với vật A, khi khối trụ B ở tọa độ góc $\alpha$ nó có tốc độ góc $\omega$ ứng với vận tốc $v_1=r\omega$. Trong hệ quy chiếu gắn với mặt sàn thì vận tốc theo phương ngang của B là $v_x =r\omega\cos{\alpha}+V$, với $V$ là vận tốc của A.
Áp dụng định luật bảo toàn động lượng theo phương ngang ta có $$ MV+mv_x=0\\ V=-\frac{mr\omega\cos{\alpha}}{m+M} $$ Cơ năng của hệ

$$ E=\frac{1}{2}MV^2+\frac{1}{2}mv_x^2+\frac{1}{2}mv_y^2+\frac{1}{2}I\omega^2-mgR\cos{\alpha} $$

Ở đây ta đã chọn mốc thế năng ở trục của mặt trụ lõm. Vận tốc theo phương thẳng đứng của vật B là $v_y=r\omega\sin{\alpha}$. Moment quán tính của khối trụ đặc $I=\frac{1}{2}mr^2$. Rút kinh nghiệm từ Bài toán 3, trong biểu thức tính năng lượng nếu trong động năng có cả tọa độ và vận tốc thì phải lập luận làm mất thành phần tọa độ đi. Ở đây ta thấy trong tất cả các thành phần động năng đều có cả vận tốc góc $\omega$ và tọa độ $\alpha$.
Ta lập luận rằng, góc dao động rất nhỏ nên thành phần vận tốc theo phương thẳng đứng của vật B không đáng kể, hay nói cách khác vector vận tốc của B chỉ theo phương ngang $v=\omega r+V$. Vận tốc của A là $V=-\frac{mr\omega}{m+M}$. Năng lượng của hệ bây giờ là

\begin{align} E&=\frac{1}{2}M\left(\frac{mr\omega}{m+M}\right)^2+\frac{1}{2}m\left(r\omega\right)^2+\frac{1}{2}\left(\frac{1}{2}mr^2\right)\omega^2-mgR\cos{\alpha}\\ &=\frac{1}{2}mr^2\left(\frac{mM}{\left(m+M\right)^2}+\frac{3}{2}\right)\omega^2-mgR\cos{\alpha}\tag{39}\label{39} \end{align}

Đạo hàm hai vế (\ref{39}) theo thời gian ta được

\begin{align} 0=mr^2\left(\frac{mM}{\left(m+M\right)^2}+\frac{3}{2}\right)\omega\omega'+mgR\alpha'\sin{\alpha} \end{align}

Rút gọn thành phần $\alpha'=\omega$ đồng thời chú ý rằng $\omega'=\alpha''$ và $\sin{\alpha}\approx\alpha$ ta được $$ \alpha''=-\frac{gR}{r^2\left(\frac{mM}{\left(m+M\right)^2}+\frac{3}{2}\right)}\alpha\\ \omega=\sqrt{\frac{gR}{r^2\left(\frac{mM}{\left(m+M\right)^2}+\frac{3}{2}\right)}} $$

BÀI TẬP THỰC HÀNH ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP NĂNG LƯỢNG TÌM CHU KÌ DAO ĐỘNG ĐIỀU HÒA NHỎ

Bài tập 1: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của con lắc lò xo trượt trên mặt phẳng nghiêng

Trên một mặt phẳng nghiêng tạo với phương ngang một góc $\alpha$, có một lăng trụ khối lượng $M$, tựa vào mặt thẳng đứng của lăng trụ một thanh có khối lượng không đáng kể (xem Hình 9). Thanh được gắn chặt vào tường bằng một lò xo có độ cứng $k$, do có khe dẫn hướng, thanh chỉ có thể chuyển động theo phương ngang. Bỏ qua ma sát giữa lăng trụ và mặt phẳng nghiêng, lăng trụ và thanh, thanh và các thanh dẫn hướng. Hãy tìm chu kỳ dao động của lăng trụ.

Bài tập 1: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của con lắc lò xo trượt trên mặt phẳng nghiêng
Hình 9. Con lắc lò xo trượt trên mặt phẳng nghiêng

Bài tập 2: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của con lắc đơn có điểm treo tự do

Một sợi dây lý tưởng có chiều dài $L$ nối một vòng tròn có thể trượt không ma sát dọc theo một nan hoa nằm ngang cố định và một vật nặng có khối lượng gấp đôi vòng tròn. Ban đầu, vòng tròn và vật nặng được giữ ở vị trí mà sợi dây tạo thành một góc nhỏ với phương thẳng đứng (xem Hình 10), sau đó thả nhẹ để hệ dao động điều hòa. Tìm chu kỳ dao động của hệ. Giả sử gia tốc rơi tự do $g$ đã biết.

Bài tập 2: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của con lắc đơn có điểm treo tự do
Hình 10. Con lắc đơn có điểm treo tự do

Bài tập 3: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ đòn bẩy lò xo

Hai đầu đòn bẩy không trọng lượng được đặt các chất điểm có khối lượng $m_1$ và $m_2$, đồng thời gắn các lò xo không trọng lượng có độ cứng $k_1$ và $k_2$. Khoảng cách từ hai đầu đòn bẩy đến điểm tựa lần lượt bằng $l_1$ và $l_2$. Chiều dài của các lò xo ở trạng thái không biến dạng được chọn sao cho đòn bẩy cân bằng ở vị trí nằm ngang. Tìm tần số dao động nhỏ của đòn bẩy sau khi lệch một chút so với phương ngang. Đòn bẩy không rời khỏi điểm tựa trong suốt quá trình dao động. Chiều dài của các lò xo lớn hơn nhiều so với biên độ dao động.

Bài tập 3: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ đòn bẩy lò xo
Hình 11. hệ đòn bẩy lò xo

Bài tập 4: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ vòng tròn quay liên kết chất điểm trượt thẳng

Một vật có khối lượng $m = 10\ \text{g}$ có thể trượt dọc theo một thanh dẫn thẳng đứng cố định. Một vành tròn mảnh đồng chất khối lượng $M=90\ \text{g}$ có trục quay O cố định nằm ngang gắn ở đầu trên của thanh dẫn (vành được liên kết với trục O nhờ những nan hoa nhẹ không được vẽ trong hình 11). Bán kính của vành là $R = 20\ \text{cm}$. Vành và vật nặng được nối với nhau bằng một thanh cứng $\text{AB}$ không trọng lượng, có thể quay tự do quanh các điểm gắn $\text{A}$ và $\text{B}$. Chiều dài của thanh $L = \text{AB} = 16\ \text{cm}$. Ở vị trí cân bằng, vành được đặt sao cho thanh $\text{AB}$ thẳng đứng. Tìm chu kỳ $T$ của các dao động của hệ xảy ra khi vòng lệch nhỏ so với vị trí này. Coi vật là một chất điểm, bỏ qua ma sát. Gia tốc trọng trường $g = 10\ \text{m/s}^2$.

Bài tập 4: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ vòng tròn quay liên kết chất điểm trượt thẳng
Hình 11. Hệ vòng tròn quay liên kết chất điểm trượt thẳng

Bài tập 5: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của vành có gắn vật nặng lăn không trượt trên mặt bàn

Một chiếc vòng mảnh có khối lượng $M = 50\ \text{g}$ và bán kính $R = 0\text{,}1\ \text{m}$ được đặt thẳng đứng trên một mặt bàn nằm ngang. Khối lượng của vòng phân bố đều dọc theo chiều dài. Một nhỏ vật có khối lượng $m = 4\ \text{g}$ được gắn vào mặt trong của vòng. Ở vị trí cân bằng, vật nặng nằm ở điểm thấp nhất của vòng. Tìm chu kỳ $T$ của các dao động nhỏ của vòng quanh vị trí này. Giả sử vòng lăn trên bàn không trượt. Gia tốc trọng trường là $g = 10\ \text{m/s}^2$.

Bài tập 5: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của vành có gắn vật nặng lăn không trượt trên mặt bàn
Hình 12. Vành có gắn vật nặng lăn không trượt trên mặt bàn

Bài tập 6: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của đĩa lăn không trượt trên máng cong hình elip

Tìm chu kỳ dao động nhỏ của một hình trụ thành mỏng bán kính $r$ có thể lăn không trượt dọc theo một ống cố định có tiết diện ngang hình elip có bán trục lớn $a$, bán trục nhỏ $b$ $(a\ll r, b\ll r)$. Vị trí của ống so với phương thẳng đứng được thể hiện trong hình 13.

Bài tập 6: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của đĩa lăn không trượt trên máng cong hình elip
Hình 13. Đĩa lăn không trượt trên máng cong hình elip

Bài toán 7. Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ hình trụ lăn trên máng tự do

Cho vật 1 là một bản mỏng đều, đồng chất, được uốn theo dạng lòng máng thành một phần tư hình trụ AB cứng, ngắn, có trục $∆$, bán kính $R$ và được gắn với điểm $\text{O}$ bằng các thanh cứng, mảnh, nhẹ. Vật 1 có thể quay không ma sát quanh một trục cố định (trùng với trục $∆$) đi qua điểm $\text{O}$. Trên Hình 8, $\text{OA}$ và $\text{OB}$ là các thanh cứng cùng độ dài $R$, $\text{OAB}$ nằm trong mặt phẳng vuông góc với trục $∆$,chứa khối tâm $\text{G}$ của vật 1, $\text{C}$ là giao điểm của $\text{OG}$ và lòng máng.

Bài toán 7: Dùng phương pháp năng lượng tìm chu kì dao động điều hòa của hệ hình trụ lăn trên máng tự do
Hình 14. Hình trụ lăn trên máng tự do
  1. Tìm vị trí khối tâm G của vật 1.
  2. Giữ cho vật 1 đứng yên tại vị trí cân bằng rồi đặt trên nó vật 2 là một hình trụ rỗng, mỏng, đồng chất, cùng chiều dài với vật 1, bán kính $r$ $(r \lt R)$, nằm dọc theo đường sinh của vật 1. Kéo vật 2 lệch ra khỏi vị trí cân bằng một góc nhỏ $β_0$ rồi thả nhẹ đồng thời cả hai vật. Tìm chu kì dao động nhỏ của vật 2. Biết rằng trong quá trình dao động, vật 2 luôn lăn không trượt trên vật 1.

ĐÁP SỐ CÁC BÀI TẬP THỰC HÀNH

🧠 Các bạn gửi lời giải để mình đăng (và nêu tên tác giả) để mọi người cùng tham khảo nhé.
🚀 Hãy chia sẻ lời giải của mình về địa chỉ: emailcuanguyendinhtan@gmail.com

💖 Ủng hộ tác giả

💡 Nếu bạn cần tài liệu, khóa học ôn thi học sinh giỏi môn Vật lý thì liên hệ mua theo địa chỉ: emailcuanguyendinhtan@gmail.com
☕ Nếu bạn thấy bài viết hữu ích, bạn có thể ủng hộ mình qua nút Donate bên dưới.
🚀 Ngoài ra, blog được duy trì nhờ quảng cáo, bạn cũng có thể quan tâm đến các quảng cáo xuất hiện trên trang.

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2025

Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025

Kỳ thi vào lớp 10 chuyên luôn là một cột mốc quan trọng, đánh dấu nỗ lực và khát vọng chinh phục tri thức của mỗi học sinh. Để hỗ trợ các em trong hành trình này, chúng tôi xin giới thiệu Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025. Đây là một tài liệu tham khảo cực kỳ giá trị, giúp các em làm quen với cấu trúc đề thi vào lớp 10 chuyên lý, rèn luyện kỹ năng giải bài và củng cố kiến thức.

Đặc biệt, Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025 có ý nghĩa rất lớn bởi đây là đề thi đầu tiên được biên soạn theo Chương trình Giáo dục phổ thông 2018. Điều này đồng nghĩa với việc đề thi sẽ tích hợp các kiến thức mới, nổi bật như Cơ năngKhúc xạ ánh sáng, vốn là những phần trọng tâm trong chương trình mới. Việc ôn luyện với đề thi này sẽ giúp các em tự tin hơn khi đối mặt với những thử thách thực tế trong kỳ thi sắp tới. Chúc các em ôn tập hiệu quả và đạt được kết quả cao nhất!

Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025

Phần 1: Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025

Câu 1 (2,5 điểm)

1) Một hòn bi có khối lượng 30 g được ném thẳng đứng lên cao với tốc độ 6 m/s từ độ cao 1,5 m so với mặt đất. Bỏ qua sức cản của không khí, chọn gốc thế năng tại mặt đất.
a) Tính cơ năng của hòn bi ở độ cao 1,5 m.
b) Xác định độ cao lớn nhất mà hòn bi đạt được.
c) Khi thế năng bằng 2 lần động năng thì tốc độ của hòn bi là bao nhiêu?

2) Một toà nhà cao 9 tầng, mỗi tầng cao 3,5 m, có một thang máy chở tối đa được 8 người, mỗi người có khối lượng trung bình \( m_\mathrm{ng} = 50\,\mathrm{kg} \). Mỗi chuyến thang máy chuyển động đều từ tầng 1 lên tầng 9 nếu không dừng ở các tầng khác thì mất thời gian 80 giây, biết khi thang máy không chở người có khối lượng \( m_\mathrm{tm} = 300\,\mathrm{kg} \). Bỏ qua lực cản chuyển động của thang máy. Tính công suất tối thiểu của động cơ thang máy.

Câu 2 (1,5 điểm)

Một bình nhiệt lượng kế khối lượng \( m_1 = m \) chứa một lượng nước có khối lượng \( m_2 = 2m \), hệ thống đang có nhiệt độ \( t_1 = 10\,^\circ\!\text{C} \). Người ta thả vào bình một cục nước đá khối lượng \( M \), nhiệt độ \( t_2 = -5\,^\circ\!\text{C} \), khi cân bằng nhiệt cục nước đá chỉ tan một nửa khối lượng của nó. Sau đó rót thêm một lượng nước ở nhiệt độ \( t_3 = 50\,^\circ\!\text{C} \), có khối lượng bằng tổng khối lượng của nước và nước đá đã có trong bình. Nhiệt độ cân bằng của hệ lúc này là $t = 20\,^\circ\!\text{C}$. Bỏ qua sự trao đổi nhiệt với môi trường xung quanh, coi thể tích của bình đủ lớn, nhiệt dung riêng của nước và nước đá lần lượt là \( c_1 = 4200\, \text{J}\!/\!(\text{kg}\! \cdot\! \text{độ}) \), \( c_2 = 2100\, \text{J}\!/\!(\text{kg}\! \cdot\! \text{độ}) \), nhiệt nóng chảy của nước đá là \( \lambda = 3{,}4\!\cdot\!10^5\, \text{J}\!/\!\text{kg} \). Xác định nhiệt dung riêng của chất làm nhiệt lượng kế.

Câu 3 (3,0 điểm)

Cho mạch điện như Hình 1. Hiệu điện thế không đổi $U=7\ \mathrm{V}$. Các điện trở $R_1\ =\ 3\,\Omega\ $, $R_2 = 6\,\Omega$. Biến trở $\text{AB}$ là một dây dẫn có điện trở suất $\rho = 4\!\cdot\!10^{-6}\,\Omega\!\cdot\!\text{m}$, có chiều dài $l=AB=1{,}5\, \text{ml}$, tiết diện đều $S = 1\,\text{mm}^2$. Ampe có điện trở không đáng kể.

Mạch điện cho câu 3 Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025
Hình 1. Mô tả ngắn gọn cho ảnh

1) Tính điện trở toàn phần của biến trở $\text{AB}$.
2) Xác định vị trí con chạy $\text{C}$ để số chỉ của ampe kế bằng không.
3) Khi con chạy $\text{C}$ ở vị trí mà $AC=2CB$ thì ampe kế chỉ giá trị bao nhiêu?
4) Xác định vị trí con chạy $\text{C}$ để ampe kế chỉ $\frac{1}{3}\ \text{A}$.

Câu 4 (2,0 điểm)

1) Chiếu một tia sáng $\text{SI}$ từ không khí vào một môi trường có chiết suất \( n_2 = \sqrt{3} \), sao cho tia tới $\text{SI}$ hợp với mặt phân cách giữa hai môi trường một góc \( \alpha = 30^\circ \) như Hình 2. Coi tốc độ của ánh sáng trong không khí là \( c = 3{,}10^8\ \text{m}\!/\text{s} \), chiết suất của không khí \( n_1 = 1 \).

Hình 2: Hiện tượng khúc xạ trong Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025
Hình 2. Tia tới nghiêng góc $\alpha$ với mặt phân cách giữa hai môi trường.

a) Tính tốc độ của ánh sáng khi truyền trong môi trường có chiết suất \( n_2 \).
b) Tính góc khúc xạ và vẽ tia khúc xạ của tia tới $\text{SI}$.

2) Cáp quang dùng để dẫn ánh sáng được ứng dụng nhiều trong thực tế, như dùng để nội soi quan sát các bộ phận bên trong cơ thể, truyền dẫn tín hiệu Internet,... Cáp quang được ghép từ rất nhiều sợi quang tạo thành bó. Mỗi sợi quang có dạng hình trụ, gồm phần lõi ở giữa có chiết suất \( n_1 \) và phần vỏ bên ngoài có chiết suất \( n_2 \ (n_2 \lt n_1) \) như Hình 3.

Hình 3: Tia sáng truyền trong sợi quang lõi chiết suất n1, vỏ chiết suất n2 - Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025
Hình 3. Đường truyền của chùm tia sáng trong sợi quang.

Tia sáng được chiếu từ bên ngoài vào một đầu sợi quang, khúc xạ vào trong lõi, sau đó phản xạ toàn phần trên mặt phân cách giữa lõi và vỏ. Sau nhiều lần phản xạ toàn phần bên trong lõi, tia sáng đi ra ngoài qua đầu bên kia.

Hình 4: Tia sáng truyền trong sợi quang lõi chiết suất n1, vỏ chiết suất n2 - Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025
Hình 4. Tia sáng tới hội tụ tại mặt trước của sợi quang

Giả sử có một sợi quang hình trụ, phần lõi có chiết suất \( n_1 = 1{,}5 \) và phần vỏ có chiết suất \( n_2 = \sqrt{2} \). Chiếu chùm tia sáng tới hội tụ tại mặt trước của sợi quang với góc \( 2\alpha \) như Hình 4. Hãy xác định góc \( \alpha \) để các tia sáng của chùm tia sáng truyền đi được trong lõi sợi quang.

Cho biết: Với \( \beta \) là một góc bất kỳ trong tam giác thì \( \sin^2 \beta + \cos^2 \beta = 1 \). Với \( 0 < \alpha, \beta < 90^\circ \) và \( \alpha < \beta \) thì \( \sin \alpha < \sin \beta \).

Câu 5 (1,0 điểm)

Cho một ampe kế có điện trở khác không, một vôn kế không lí tưởng, một nguồn điện không đổi, một điện trở có giá trị \( R_x \) chưa biết và các dây dẫn có điện trở rất nhỏ. Hãy trình bày cách đo chính xác giá trị điện trở \( R_x \).

------------ HẾT ------------

Phần 2: Đáp án và hướng dẫn chấm chi tiết Đề thi vào lớp 10 chuyên lí trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Trị (Quảng Bình cũ) năm 2025

Cảm ơn bạn đã ủng hộ trang web bằng cách bấm vào quảng cáo.

Đang xử lý... bạn sẽ được chuyển đến trang tải tài liệu trong 10 giây.

👉 Bạn có thể hỗ trợ chúng tôi bằng cách lướt qua quảng cáo nhé!

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2025

Tại Sao Trái Đất Quay Ngược Chiều Kim Đồng Hồ?

Tác giả: S. Semikov

Lấy cảm hứng từ kiệt tác "Đối thoại" của Galileo Galilei, nơi những tranh biện khoa học vĩ đại đã được thể hiện qua các cuộc trò chuyện sâu sắc, bài viết này cũng đưa độc giả vào một cuộc đối thoại đầy trí tuệ. Đó là cuộc trò chuyện giữa ba anh em – một nhà Toán học, một nhà Thiên văn học và một nhà Ngôn ngữ học – khi họ cùng nhau giải đáp câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa: "Tại sao Trái Đất quay ngược chiều kim đồng hồ?" Từ những góc nhìn khác nhau, họ đã mang đến những lập luận bất ngờ, thách thức những định kiến và mở ra cánh cửa tư duy mới mẻ về vũ trụ, xác suất và ngôn ngữ.

Tại Sao Trái Đất Lại Quay Ngược Chiều Kim Đồng Hồ? - 'Đối thoại' của Galileo đã đưa các nhà khoa học vào miền từ duy bất tận

Từng chiếc lá vàng xào xạc trong gió thu, như những trang sách cũ kỹ đang thì thầm câu chuyện đã qua. Trên hiên nhà, ba anh em ngồi lặng lẽ, cúi đầu suy tư. Họ vừa cùng nhau trải nghiệm một hành trình tri thức đầy mê hoặc kéo dài bốn ngày, xuyên suốt gần bốn thế kỷ lịch sử, qua từng dòng "Đối thoại" của Galileo Galilei – cuốn sách kinh điển đã định hình lại cách nhân loại nhìn nhận vũ trụ. Cuộc tranh biện vĩ đại về hai hệ thống thế giới quan trọng nhất: mô hình địa tâm của Ptolemy và mô hình nhật tâm của Copernicus, vừa khép lại trong tâm trí họ.

Dù cuốn sách có thú vị và sâu sắc đến đâu, rồi cũng đến lúc phải khép lại. Nhưng những giá trị, những ý tưởng vĩ đại mà nó gieo vào tâm hồn và trí tuệ con người thì sẽ mãi trường tồn. Để hồi sinh cảm giác hưng phấn và tìm tòi tri thức đã mất đi phần nào đó, ba anh em – một nhà Toán học uyên bác, một nhà Thiên văn học đầy khao khát khám phá và một nhà Ngôn ngữ học sâu sắc về văn hóa – quyết định tổ chức một buổi đối thoại của riêng mình, lấy cảm hứng từ chính phong cách của Galileo.

Trong "Đối thoại" của mình, Galileo có ba nhân vật chính: Sagredo, Salviati và Simplicio. Ba anh em thấy mình cũng hoàn toàn phù hợp với cấu trúc ấy. Và thế là, một chủ đề thảo luận không chỉ thú vị mà còn làm hài lòng tất cả đã được lựa chọn:

Nếu Galileo đã dũng cảm chứng minh rằng Trái Đất của chúng ta thực sự quay, vậy thì tại sao nó lại quay ngược chiều kim đồng hồ? Một câu hỏi tưởng chừng đơn giản, nhưng lại mở ra những cánh cửa tư duy bất ngờ.

Tại Sao Trái Đất Lại Quay Ngược Chiều Kim Đồng Hồ? - Bắt đầu cuộc 'đối thoai' đầy hài hước và sâu sắc

🧮 Nhà Toán học mở lời trước: "Hướng Quay Chỉ Là Tương Đối!"

Anh cả, nhà Toán học, người luôn chú trọng đến sự chính xác và tính khách quan, đã phá vỡ sự im lặng. Anh ta nhíu mày giải thích rằng khái niệm "hướng quay" vốn dĩ chỉ mang tính tương đối. "Nếu chúng ta quan sát Trái Đất từ phía Bắc Cực," anh nói, "chúng ta sẽ thấy nó quay ngược chiều kim đồng hồ. Nhưng nếu đổi góc nhìn, đứng từ Nam Cực mà quan sát, thì hướng quay lại hoàn toàn ngược lại, tức là theo chiều kim đồng hồ." Với lập luận sắc bén đó, anh khẳng định: "Vậy nên, câu hỏi 'tại sao Trái Đất quay ngược chiều kim đồng hồ' thực ra là… vô nghĩa." Đối với một nhà toán học, một đặc tính thay đổi tùy thuộc vào hệ quy chiếu thì không thể có một câu trả lời 'tuyệt đối' về lý do.

🔭 Nhà Thiên văn học phản bác: "Quy Ước Khoa Học và Sự Phổ Biến!"

Người anh thứ hai, nhà Thiên văn học, với kiến thức sâu rộng về vũ trụ, lập tức phản đối. Anh ta mỉm cười giải thích: "Anh đã sai ở đây, Toán học à. Trong giới khoa học và cả trong nhận thức chung, bán cầu Bắc của Trái Đất vẫn luôn được coi là phía 'trên'. Đây không phải là ngẫu nhiên đâu nhé! Các quả địa cầu mà chúng ta thường thấy đều được định hướng như vậy, với Bắc Cực ở phía trên cùng." Anh còn bổ sung thêm: "Ngay cả chúng tôi, những nhà thiên văn học rất nghiêm túc, cũng thường nói 'phía trên mặt phẳng hoàng đạo' khi muốn chỉ nửa không gian từ phía bán cầu Bắc, và 'phía dưới' khi nói về bán cầu Nam."

"Vậy thì, câu hỏi đó là hoàn toàn hợp lý," Nhà Thiên văn học kết luận, "nếu chúng ta hiểu rằng chúng ta đang nhìn từ phía Bắc."

🧮 Nhà Toán học tiếp tục: "Đó Là Sự Ngẫu Nhiên Thuần Túy!"

"Được thôi, tôi cũng sẽ trả lời câu hỏi đó, dù nó có dài dòng đến mấy!" Nhà Toán học đáp lại, nở một nụ cười xảo quyệt. Anh ta tung một đồng xu lên không trung, để nó rơi xuống lòng bàn tay và hỏi: "Trước tiên, hãy trả lời tôi: tại sao lại ra mặt ngửa mà không phải mặt sấp?" Anh ta nhìn vào đôi mắt của hai người anh em mình, và nói một cách quả quyết: "Bạn thấy đấy, sự xuất hiện của vòng quay theo chiều kim đồng hồ hay ngược chiều kim đồng hồ, cũng giống như việc tung đồng xu ra mặt ngửa hay mặt sấp, đều là những sự kiện ngẫu nhiên thuần túy và có khả năng xảy ra như nhau."

🔭 Nhà Thiên văn học phản bác lần nữa: "Quy Luật Của Hệ Mặt Trời!"

"À, ở đây anh lại sai rồi!" Nhà Thiên văn học ngắt lời. "Trong phạm vi Hệ Mặt Trời của chúng ta, vòng quay ngược chiều kim đồng hồ (nếu nhìn từ phía Bắc của mặt phẳng hoàng đạo) là hướng phổ biến hơn rất nhiều, và do đó, có khả năng xảy ra cao hơn." Anh giải thích thêm: "Chúng tôi gọi chuyển động này là chuyển động trực tiếp (prograde), mặc dù nó là 'ngược' với chiều kim đồng hồ, và chuyển động theo chiều kim đồng hồ thì lại được gọi là nghịch hành (retrograde), mặc dù nó là 'thuận' với chiều kim đồng hồ thông thường."

"Hầu hết mọi thứ trong Hệ Mặt Trời đều di chuyển theo hướng 'trực tiếp' này," Nhà Thiên văn học nhấn mạnh. "Bề mặt của Mặt Trời, các hành tinh trên quỹ đạo và quanh trục của chúng, các vệ tinh và vành đai quanh các hành tinh, và thậm chí cả vành đai tiểu hành tinh – tất cả đều tuân theo hướng quay này."

Anh ta liệt kê một vài ngoại lệ hiếm hoi để minh chứng cho quy luật phổ biến:

  • Sao Thiên Vương "lười biếng" – với trục quay nghiêng gần 98 độ so với mặt phẳng quỹ đạo của nó.
  • Sao Kim, hành tinh có ngày dài nhất trong Hệ Mặt Trời (kéo dài 243 ngày Trái Đất), quay rất chậm và theo chiều ngược lại.
  • Một số ít vệ tinh bên ngoài của các hành tinh khí khổng lồ và vài sao chổi, tiểu hành tinh cũng có chuyển động nghịch hành.

"Sự phổ biến vượt trội của chuyển động thuận trong Hệ Mặt Trời được giải thích là do đám mây tiền hành tinh khổng lồ, từ đó Hệ Mặt Trời hình thành, vốn đã có một hướng quay nhất định," Nhà Thiên văn học giải thích. "Do đó, khả năng Trái Đất của chúng ta quay theo chiều kim đồng hồ là cực kỳ, cực kỳ nhỏ!"

🧮 Nhà Toán học không chịu thua: "Xác Suất Cho Sự Kiện Đã Xảy Ra Là Vô Nghĩa!"

Để phản bác, nhà Toán học, với khả năng biến mọi thứ thành mô hình phân tích, rút ra một tấm vé xe buýt từ túi và hỏi: "Anh có biết rằng xác suất để tấm vé này chính xác có số '847935' là một phần triệu không? Tuy nhiên, như anh thấy đấy, nó đã xuất hiện chính xác như vậy."

"Điều đó chứng minh," anh tiếp tục, "không có ý nghĩa gì khi chúng ta đi tìm kiếm xác suất của một sự kiện đã xảy ra rồi. Hơn nữa, chúng ta chỉ nên nói về xác suất đối với những sự kiện có thể lặp lại, có thể tái tạo hoặc quan sát với số lượng lớn. Trong một sự kiện duy nhất không thể có bất kỳ quy luật xác suất nào."

Anh đưa ra một ví dụ minh họa: "Đây chính là lý do, ví dụ, không thể nói về nhiệt độ hoặc áp suất của khí trong một thể tích chỉ bao gồm một hoặc vài phân tử. Hơn nữa, anh Thiên văn học khẳng định rằng hướng quay của Trái Đất được quyết định bởi hướng quay của đám mây nguyên thủy, nhưng anh lại quên rằng bản thân hướng quay ban đầu của đám mây đó cũng là ngẫu nhiên."

"Chẳng hạn," anh giải thích, "chúng ta có thể nghiên cứu các điều kiện ban đầu khi tung một đồng xu và tính toán xem nó sẽ rơi mặt nào. Điều này cho thấy rằng về nguyên tắc, việc tung đồng xu không phải là một sự kiện ngẫu nhiên. Nhưng vấn đề ở đây không phải là kết quả không thể đoán trước, mà là nó không thể đoán trước nếu không biết các điều kiện ban đầu, bản thân chúng cũng là ngẫu nhiên."

"Do đó," Nhà Toán học kết luận với vẻ chiến thắng, "cả hai hướng quay của Trái Đất đều có khả năng xảy ra như nhau. Bây giờ, tôi hy vọng các anh đã hiểu rằng tranh luận này là vô nghĩa." Anh ta quay sang người em út: "Anh Ngôn ngữ học, anh có đồng ý không?"

🗣️ Nhà Ngôn ngữ học lên tiếng hòa giải: "Ý Nghĩa Nằm Trong Ngôn Ngữ!"

"Cả hai anh về cơ bản đều đúng, theo cách của mình," Nhà Ngôn ngữ học lên tiếng, với một nụ cười thấu hiểu. "Cuộc tranh luận của các anh thực ra là về từ ngữ và cách diễn đạt." Anh giải thích thêm: "Mọi thứ đều phụ thuộc vào ý nghĩa mà các anh đặt vào câu hỏi. Đương nhiên, mỗi người đã tìm kiếm và tìm thấy lời giải cho câu hỏi theo ý nghĩa gần gũi với mình: nhà toán học tìm kiếm thông qua xác suất và tính ngẫu nhiên, nhà thiên văn học thông qua vũ trụ học và quy luật hình thành vũ trụ. Và bây giờ, tôi sẽ đưa ra cho các anh một cách giải thích thứ ba, một cách giải thích của riêng tôi."

Ánh mắt anh ta rơi vào chiếc đồng hồ treo tường cũ kỹ. "Vì tôi là một nhà ngôn ngữ học, tôi tìm ý nghĩa trước hết trong ý nghĩa của từ ngữ." Anh chỉ vào chiếc đồng hồ: "Đây là người sẽ phán xét chúng ta."

"Khi các anh nghe về chuyển động theo chiều kim đồng hồ, các anh hình dung một hướng cụ thể trên mặt phẳng, nhưng tôi thì lại nhìn thấy từ 'đồng hồ' trong đó." Anh tiếp tục: "Đối với tôi, 'theo chiều kim đồng hồ' đơn giản là hướng trùng với chuyển động của kim giờ trên chiếc đồng hồ mà chúng ta đang sử dụng."

"Vậy thì, câu hỏi thực sự đặt ra là: tại sao con người lại chọn hướng chuyển động của kim giờ làm hướng chính, mà không phải, chẳng hạn, hướng quay của bàn xoay gốm hoặc hướng quay của kim phút?" Nhà Ngôn ngữ học hỏi lại. "Và nói chung, tại sao con người lại làm cho kim giờ quay theo hướng mà chúng ta biết? Tôi nghĩ điều này không phải ngẫu nhiên chút nào."

Anh ta chậm rãi giải thích: "Hướng chuyển động của kim đồng hồ trong đồng hồ cơ học hiện đại được chấp nhận là hướng quay của kim chỉ trong những chiếc đồng hồ đầu tiên do con người tạo ra, đó chính là đồng hồ Mặt trời."

Đồng hồ Mặt trời - chiều quay của kim đồng hồ Mặt trời chính là tiền đề cho chiều quay của đồng hồ ngày nay
Đồng hồ Mặt trời - chiều quay của kim đồng hồ Mặt trời chính là tiền đề cho chiều quay của đồng hồ ngày nay.

"Chính những chiếc đồng hồ mặt trời cổ kính đó đã quyết định không chỉ hình dạng của đồng hồ cơ học hiện đại và tốc độ quay của kim giờ của chúng (chỉ có điều nó quay chậm hơn hai lần so với bóng và kim trên một số mặt số 24 giờ trước đây), mà còn cả hình dạng của các thiết bị có thang đo hình tròn và kim chỉ mà chúng ta thấy ngày nay."

"Điều quan trọng là," Nhà Ngôn ngữ học nhấn mạnh, "chỉ chuyển động của bóng kim giờ trên đồng hồ mặt trời mới có hướng quay không đổi và luôn có thể tái tạo được – đó là lý do tại sao con người lấy nó làm tiêu chuẩn."

Anh ta tạm dừng, và rồi nói một cách đầy thâm thúy: "Hãy lưu ý rằng bóng của một cái cột, như chúng ta biết, quay theo chiều kim đồng hồ – theo cùng hướng mà Mặt trời di chuyển biểu kiến trên bầu trời của chúng ta."

"Nhưng," anh tiếp tục, "như Galileo đã chỉ ra một cách tài tình, trên thực tế Mặt trời đứng yên, và chuyển động biểu kiến của nó là do sự quay của Trái Đất theo hướng ngược lại, tức là chính xác ngược chiều kim đồng hồ."

"Như vậy," Nhà Ngôn ngữ học kết luận, đôi mắt sáng lên, "rõ ràng là Trái Đất chỉ có thể quay ngược chiều kim đồng hồ, nếu điều này được hiểu không phải là một hướng cụ thể và tuyệt đối trong không gian, mà chính là hướng chuyển động của bóng kim giờ trên đồng hồ mặt trời hoặc đồng hồ cơ học. Nếu Trái Đất quay theo hướng khác, thì chuyển động của kim giờ cũng sẽ khác đi, và định nghĩa về 'chiều kim đồng hồ' của chúng ta cũng sẽ thay đổi theo!"

🤯 Nhà Toán học thốt lên: "Sự Bất Biến Của Quy Ước!"

"Ôi, anh trai, anh thật tài năng!" Nhà Toán học thốt lên một cách ngưỡng mộ, "Điều này thật không thể tin được!" Anh ta suy nghĩ một lát rồi nói tiếp: "Có vẻ như, nếu nền văn minh xuất hiện ở bán cầu nam, họ cũng sẽ thấy rằng từ phía của họ, Trái Đất quay ngược chiều kim đồng hồ – kim đồng hồ CỦA HỌ! Bởi vì Mặt trời của họ di chuyển trên bầu trời theo hướng ngược lại với chuyển động của chúng ta, và do đó, kim giờ của họ cũng sẽ quay ngược lại."

"Điều này thật đáng kinh ngạc!" Nhà Toán học hào hứng. "Sự quay tương đối của Trái Đất và kim đồng hồ là bất biến đối với phép biến đổi hướng quay của Trái Đất!"

👽 Nhà Thiên văn học mơ mộng: "Và Với Các Nền Văn Minh Ngoài Hành Tinh..."

"Và không chỉ Trái Đất đâu," Nhà Thiên văn học xen vào, người mà, giống như tất cả các nhà thiên văn học, sâu thẳm trong lòng vẫn ấp ủ giấc mơ tiếp xúc với sự sống ngoài hành tinh có trí tuệ. "Điều này thậm chí còn đúng với bất kỳ hành tinh nào có nền văn minh bản địa!"

Anh ta tiếp tục với ánh mắt mơ màng: "Hãy tưởng tượng người ngoài hành tinh sẽ ngạc nhiên đến mức nào khi, sau khi liên lạc với họ, chúng ta thông báo rằng hành tinh của họ quay ngược chiều kim đồng hồ của họ! Nói cách khác, chúng ta không chỉ biết tiêu chuẩn quay của họ mà còn biết cả hướng quay của hành tinh đó và mối quan hệ với tiêu chuẩn đó. Tôi, nếu ở vị trí của họ, chắc chắn sẽ rất, rất ngạc nhiên!"

🧠 Lời kết của Nhà Ngôn ngữ học: "Giới Hạn Của Phân Tích!"

"Tôi sẽ không gán quy tắc này một tính phổ quát như vậy," Nhà Ngôn ngữ học làm giảm nhiệt huyết của anh trai mình một cách nhẹ nhàng. "Vì nó đòi hỏi phải đáp ứng nhiều điều kiện cùng một lúc. Ví dụ, nền văn minh này có thể đã quên đồng hồ cơ học là gì, hoặc đồng hồ mặt trời không được phát minh, chẳng hạn, do bầu khí quyển nhiều mây dày đặc, giống như trên sao Kim."

"Tôi đã phân tích cho nền văn minh Trái Đất... Tôi đề nghị chúng ta tạm dừng thảo luận ở đây." Nhà Ngôn ngữ học khẽ rùng mình. "Bây giờ trời đã tối và se lạnh. Tôi đề nghị chúng ta đi uống trà. Có ai phản đối không?"

Không ai phản đối. Ba anh em đứng dậy, bước vào nhà, để lại phía sau những chiếc lá vàng xào xạc trong gió thu và những suy tư sâu sắc về vũ trụ, xác suất và ý nghĩa của những từ ngữ tưởng chừng đơn giản. Cuộc đối thoại của họ có thể đã tạm khép lại, nhưng những ý tưởng mà nó khơi gợi sẽ còn tiếp tục vang vọng mãi.

Hãy đọc bài viết tuyệt vời này:

Nhân loại sẽ rời Trái Đất đến một hành tinh mới trong 600 năm tới – Giấc mơ hay thực tế?
Nguyễn Đình Tấn - Giáo viên vật lý - Trường THPT chuyên Võ Nguyên Giáp - Quảng Bình